10 kĩ thuật hay được dùng trong golang
Sử dụng một GOPATH duy nhất Sử dụng đồng thời nhiều GOPATH sẽ không giúp cho hệ thống mở rộng tốt. Bản thân GOPATH đã rất độc lập (thông qua import path). Việc sử dụng một lúc nhiều GOPATH sẽ đem lại hiệu ứng phụ, ví dụ như nhiều phiên bản khác nhau cho một package. ...
Sử dụng một GOPATH duy nhất
Sử dụng đồng thời nhiều GOPATH sẽ không giúp cho hệ thống mở rộng tốt. Bản thân GOPATH đã rất độc lập (thông qua import path). Việc sử dụng một lúc nhiều GOPATH sẽ đem lại hiệu ứng phụ, ví dụ như nhiều phiên bản khác nhau cho một package. Bạn có thể update version của một package tại chỗ này nhưng lại quên chỗ khác. Cá nhân tôi chưa từng thấy một project nào lại cần nhiều GOPATH khác nhau.
Một số dự án lớn như camlistore cũng vendoring bằng cách đóng băng tất cả các phụ thuộc vào một folder sử dụng godep. Điều đó có nghĩa là ngay cả các dự án đó cũng sử dụng một và chỉ một GOPATH.
Sử dụng hàm khi dùng select bên trong vòng for
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 |
func main() { L: for { select { case t1 := <-time.After(time.Second): fmt.Println("hello", t1) if t1.Second()%4 == 0 { break L } } } fmt.Println("ending") } |
Đoạn code trên lấy timestap sau mỗi 4s, khi số giây chia hết cho 4 sẽ break. Đoạn code sử dụng label L để break bởi nếu chỉ dùng break đơn thuần thì sẽ không thoát ra khỏi cả vòng for.
Mặc dù đây là cách dùng đúng cho label, tuy nhiên cá nhân tôi không thích cách dùng này lắm. Nếu đoạn code được viết lại như sau thì sẽ không cần dùng label nữa
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 |
func foo() { for { select { case t1 := <-time.After(time.Second): fmt.Println("hello", t1) if t1.Second()%4 == 0 { return } } } } func main() { foo() fmt.Println("ending") } |
Như vậy nếu tách ra hàm một cách thích hợp thì sẽ không cần phải sử dụng GoTo nữa.
Khi khởi tạo struct, hãy sử dụng tên của thuộc tính
Giả sử chúng ta có struct dưới đây
1 2 3 4 5 6 |
type T struct { Foo string Bar int } |
Có 2 cách để khởi tạo T, và đều đem lại kết quả như nhau
1 2 3 |
t := T{"example", 123} |
1 2 3 |
t := T{Foo: "example", Bar: 123} |
Mặc dù đem lại kết quả giống nhau, tuy nhiên hãy hình dung ta thêm thuộc tính vào T
1 2 3 4 5 6 7 |
type T struct { Foo string Bar int Qux string } |
Khi đó thì cách không chỉ định tên của thuộc tính sẽ compile error (lỗi không đủ giá trị)
Hãy chia làm nhiều dòng khi khởi tạo struct
Thay vì viết là
1 2 3 |
T{Foo: "example", Bar:someLongVariable, Qux:anotherLongVariable, B: forgetToAddThisToo} |
thì hãy viết
1 2 3 4 5 6 7 8 |
T{ Foo: "example", Bar: someLongVariable, Qux: anotherLongVariable, B: forgetToAddThisToo, } |
Thêm hàm String() vào enum kiểu int
Giả sử chúng ta có kiểu enum như sau
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 |
type State int const ( Running State = iota Stopped Rebooting Terminated ) |
Tuy nhiên khi sử dụng trong code thì sẽ khó phân biệt kiểu, do đó nếu chúng ta thêm method
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 |
func (s State) String() string { switch s { case Running: return "Running" case Stopped: return "Stopped" case Rebooting: return "Rebooting" case Terminated: return "Terminated" default: return "Unknown" } } |
thì khi print ra sẽ hiển thị s là “Running” thay vì 0
Khi sử dụng iota hãy nhớ thêm +1
Giả sử chúng ta có struct như sau:
1 2 3 4 5 6 7 |
type T struct { Name string Port int State State } |
và struct này được sử dụng
1 2 3 4 5 6 |
func main() { t := T{Name: "example", Port: 6666} fmt.Printf("%+v
", t) // --> "{Name:example Port:6666 State:Running}" } |
Bạn có thể thấy chúng ta đã quên mất khởi tạo giá trị State, và nó ngẫu nhiên nhận giá trị Running, có vẻ là một giả định không hề tốt
Vậy điều cần làm là thay vì bắt đầu enum từ 0, chúng ta hãy bắt đầu từ 1
1 2 3 4 5 6 7 8 |
const ( Running State = iota + 1 Stopped Rebooting Terminated ) |
Hoặc có thể làm một cách khác
1 2 3 4 5 6 7 8 9 |
onst ( Unknown State = iota Running Stopped Rebooting Terminated ) |
Hãy trả lại function ngay khi có thể
Nếu có xử lý
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 |
func bar() (string, error) { v, err := foo() if err != nil { return "", err } return v, nil } |
thì hãy thay bằng
1 2 3 4 5 |
func bar() (string, error) { return foo() } |
Sử dụng slices, map dưới dạng custom type
Giả sử chúng ta có một hàm trả về server list
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 |
type Server struct { Name string } func ListServers() []Server { return []Server{ {Name: "Server1"}, {Name: "Server2"}, {Name: "Foo1"}, {Name: "Foo2"}, } } |
Giả sử chúng ta muốn thêm việc filter tên Server vào thì sẽ phải sửa trực tiếp hàm ListServers, hoặc thêm hàm mới đại loại như ListServerFiltered, khá là phiền phức. Khi đó để xử lý đẹp đẽ, chúng ta chỉ cần gán type slice thành 1 type khác rồi bind xử lý mới vào nó
1 2 3 4 5 6 7 |
type Servers []Server func (s Servers) Filter(name string) Servers { // trả về kết quả filter } |
Sử dụng hàm wrappter WithContext
Giả sử chúng ta có rất nhiều xử lý giống nhau
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 |
func foo() { mu.Lock() defer mu.Unlock() // foo } func bar() { mu.Lock() defer mu.Unlock() // bar } func qux() { mu.Lock() defer mu.Unlock() // qux } |
Chúng ta có thể viết lại đẹp đẽ hơn
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 |
func withLockContext(fn func()) { mu.Lock defer mu.Unlock() fn() } func foo() { wit
Có thể bạn quan tâm
0
|