Best practice trong xử lý Error Retries
Xin chào tất cả mọi người. Mình tên là nooptr đang làm việc tại 1 công ty startup Nhật Bản, có tên là Artrigger. 1 công ty chuyên cung cấp các giải pháp về Blockchain và License Business. Hôm nay mình chia sẻ đến mọi người 1 giải pháp khá hay trong vấn đề giải quyết các bài toán liên quan đến xử ...
Xin chào tất cả mọi người. Mình tên là nooptr đang làm việc tại 1 công ty startup Nhật Bản, có tên là Artrigger. 1 công ty chuyên cung cấp các giải pháp về Blockchain và License Business.
Hôm nay mình chia sẻ đến mọi người 1 giải pháp khá hay trong vấn đề giải quyết các bài toán liên quan đến xử lí error retries, có tên gọi là Exponential Backoff.
Vấn đề đặt ra
Khi làm việc với API thì việc gửi request đến API để lấy dữ liệu về là việc làm không thể thiếu. Thế nhưng không phải lúc nào API cũng hoạt động bình thường. Thi thoảng server có vấn đề và nó không thể xử lí request và sẽ trả về lỗi. Vậy để giải quyết vấn đề này thì chúng ta sẽ làm thế nào? Đa số chúng ta sẽ retries lại mấy lần, kiểu như sau:
retries = 0 DO wait 1 second status = Get the result of response IF status = SUCCESS retry = false ELSE retry = true END IF retries = retries + 1 WHILE (retry AND (retries < MAX_RETRIES))
Đoạn code này dường như hoàn hảo nhưng mà nếu suy nghĩ kĩ thì nó thật sự không hiệu quả trong 1 số trường hợp. Vậy cùng nhau xem nó đang gặp vấn đề nào nhé.
Exponential Backoff là gì?
Exponential Backoff là 1 thuật toán tính toán thời gian đợi giữa mỗi lần retries theo hàm luỹ kế để việc thực hiện gửi lại request được hiệu quả nhất.
Ví dụ như lần retries thứ 1 sẽ đợi 1s, lần retries thứ 2 sẽ đợi 2s, lần thứ 3 sẽ đợi 4s .... Tức là thời gian đợi sau mỗi lần retries sẽ không cố định mà sẽ tăng theo hàm luỹ kế. Và theo như thống kê, nếu làm theo cách này thì sẽ mang lại những hiệu quả sau:
- Giảm tải của server
- Loại bỏ đi những request lãng phí
- Trước khi retries lại thì có thể ở phía server đã giải quyết xong lỗi
Vấn đề gì xảy khi không dùng Exponential Backoff
Bây giờ chúng ta quay lại ví dụ lúc trước.
retries = 0 DO wait 1 second status = Get the result of response IF status = SUCCESS retry = false ELSE retry = true END IF retries = retries + 1 WHILE (retry AND (retries < MAX_RETRIES))
Giả sử như web server của chúng ta có 2 con (con thứ 1, con thứ 2). Request gửi từ client, thông qua Load Balancer sẽ gửi lần lượt đến con thứ 1 và con thứ 2.
Giả sử như request gửi từ client thông qua Load balancer sẽ đến con thứ 1. Và lúc này con thứ 1 đang bị lỗi. Khi đó chúng ta sẽ thực hiện retries lại. Và những request tiếp theo chắc chắn sẽ gửi đến con thứ 2.
Nếu như bây giờ thời gian retries của chúng ta fix cứng là 1 giây chẳng hạn. Khi đó toàn bộ request từ client sẽ được gửi liên tiếp đến con thứ 2. Điều này đồng nghĩa với việc server thứ 2 sẽ nhận 1 số lượng request lớn, liên tục từ các client. Nó cũng giống như việc tấn công DDos vậy. Và hậu quả là con thứ 2 này cũng có khả năng bị down.
Ví dụ về thuật toán Exponential Backoff
Vậy chúng ta nên retries lại như nào cho hợp lý? Câu trả lời khá đơn giản. Chúng ta chỉ cần cài đặt thời gian retries là hàm luỹ kế là xong.
retries = 0 DO wait for random from 0 to (2^retries * 100) milliseconds status = Get the result of response IF status = SUCCESS retry = false ELSE retry = true END IF retries = retries + 1 WHILE (retry AND (retries < MAX_RETRIES))
Như trong ví dụ trên ta có thể thấy được:
- Nếu request bị thất bại thì chúng ta sẽ đợi (1 + random_number_milliseconds) giây và thực hiện retries
- Nếu request bị thất bại thì chúng ta sẽ đợi (2 + random_number_milliseconds) giây và thực hiện retries
- Nếu request bị thất bại thì chúng ta sẽ đợi (4 + random_number_milliseconds) giây và thực hiện retries
Và sẽ loop cho đến khi số lần retries đạt MAX_RETRIES thì thôi. Nếu MAX_RETRIES = 5 thì chúng ta sẽ có 2^5 = 32 giây, MAX_RETRIES = 6 thì chúng ta sẽ có 2^6 = 64 giây. Tuỳ thuộc vào từng use case mà chúng ta sẽ chọn ra giá trị MAX_RETRIES phù hợp.
Ví dụ thực tế
Ví dụ 1: Google HTTP client
retry_interval = retry_interval * multiplier ^ (N - 1) randomized_interval := retry_interval * (random value in range [1 - randomization_factor, 1 + randomization_factor])
- Nếu status của response là 5xx thì sẽ thực hiện retries.
- Mặc định thì retry_interval = 0.5s, randomization_factor = 0.5, multiplier= 1.5, max_interval = 1 minute, max_elapsed_time = 15s
- Nếu retry_interval > max_elapsed_time (15s) thì sẽ stop lại quá trình loop
Kết quả:
request retry_interval randomized_interval 01 00.50 [0.25, 0.75] 02 00.75 [0.38, 1.12] 03 01.12 [0.56, 1.69] 04 01.69 [0.84, 2.53] 05 02.53 [1.27, 3.80] 06 03.80 [1.90, 5.70] 07 05.70 [2.85, 8.54] 08 08.54 [4.27, 12.81] 09 12.81 [6.41, 19.22] 10 19.22 STOP
Ví dụ 2:AWS SimpleDB
currentRetry = 0 DO status = execute Amazon SimpleDB request IF status = success OR status = client error (4xx) set retry to false process the response or client error as appropriate ELSE set retry to true currentRetry = currentRetry + 1 wait for a random delay between 0 and (4^currentRetry * 100) milliseconds END-IF WHILE (retry = true AND currentRetry < MaxNumberOfRetries)
Kết quả:
request randomized_interval 1 [0, 400) 2 [0, 1600) 3 [0, 6400) 4 [0, 25600) 5 [0, 102400)
Tổng kết
Hi vọng qua bài này các bạn cũng hiểu rõ được Exponential Backoff là gì, làm thế nào để retries error hiệu qủa. Chúc các bạn thành công.