12/08/2018, 13:05

TÌM HIỂU VỀ INCOME STATEMENT - BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH (Phần 1)

Báo cáo kết quả kinh doanh là một trong những báo cáo tài chính quan trọng được sử dụng cho kế toán và chủ doanh nghiệp (các báo cáo tài chính quan trọng khác bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo vốn chủ sở hữu). Báo cáo kết quả kinh doanh còn được biết đến như báo cáo ...

Báo cáo kết quả kinh doanh là một trong những báo cáo tài chính quan trọng được sử dụng cho kế toán và chủ doanh nghiệp (các báo cáo tài chính quan trọng khác bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo vốn chủ sở hữu). Báo cáo kết quả kinh doanh còn được biết đến như báo cáo lãi lỗ, báo cáo về hoạt động sản xuất hoặc là thu nhập thuần. Và dường như đa số loại báo cáo này được sử dụng để giải thích cho các vấn đề trên

Báo cáo kết quả kinh doanh rất quan trọng bởi vì chúng thể hiện được lợi nhuận của một công ty ttrong khoảng thời gian kế toán nhất định. Kỳ kế toán trong báo cáo được lựa chọn bởi doanh nghiệp và có thể thay đổi được.

Ví dụ:

_"For the Three Months Ended December 31, 2014" (The period of October 1 through December 31, 2014.)

Báo cáo tài chính kéo dài 3 tháng, bắt đầu từ 1/10/2014 đến 31/12/2014

"The Four Weeks Ended December 27, 2014" (The period of November 29 through December 27, 2014.)

Báo cáo tài chính kéo dài 4 tuần , bắt đầu từ 29/11 đến 27/12/2014

"The Fiscal Year Ended June 30, 2014" (The period of July 1, 2013 through June 30, 2014.)

Năm tài chính kéo dài 1 năm, bắt đầu từ 1/07/2013 đến 30/06/2014__

Điểm chính ở báo cáo tài chính là nó thể hiện doanh thu, chi phí, lãi, lỗ chứ nó không thể hiện được số tiền mà công ty nhận được hoặc số tiền mà công ty chi tiêu.

Con người thường tập trung vào tình trạng lãi/lỗ của một công ty do nhiều lý do. Ví dụ:

Nếu một công ty không có khả năng sản xuất có lãi tức là báo cáo sẽ ghi “Net loss” thì một nhà phân tích tài chính/người cho vay/người đi vay có thể lưỡng lự khi có ý định đầu tư thêm cho công ty này.

Mặt khác, một công ty nếu sản xuất có lãi, báo cáo sẽ chỉ ra là “Net income”- chứng minh được khả năng sử dụng tiền và đầu tư tiền một cách thành công. Và việc công ty sản xuất có lãi hay không rất quan trọng cho những nhà đầu tư và người cho vay hiện tại, người cho vay và nhà đầu tư tương lai, quản lý công ty, các đối thủ cạnh tranh, chính phủ, lực lượng lao động và các thành phần khác.

Cấu trúc của báo cáo tài chính or báo cáo lãi lỗ sẽ được thay đổi tùy thuộc vào độ phức tạp của hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, hầu hết các công ty đều có các thành phần chính sau đây trong báo cáo kết quả kinh doanh:

A. Doanh thu và lãi

  1. Doanh thu từ các hoạt động chính

  2. Doanh thu từ các hoạt động phụ

  3. Lãi

B. Chi phí và lỗ

  1. Chi phí cho các hoạt động chính

  2. Chi phí cho các hoạt động phụ

  3. Lỗ

Nếu như (doanh thu + lãi) trừ đi (chi phí+lỗ) mà dương thì báo cáo sẽ chỉ ra là “Net income” và ngược lại là “Net loss”.

Nội dung cụ thể của các phần chính trong báo cáo Income statement như sau:

A.Doanh thu và lãi

1.Doanh thu từ các hoạt động chính

Loại này thường được hiểu như là doanh thu từ hoạt động sản xuất.

Các hoạt động chính của một nhà bán lẻ chủ yếu là mua hàng hóa và bán hàng hóa. Các hoạt động chính của một nhà sản xuất là tạo ra các sản phẩm và bán chúng. Cả các nhà bán lẻ, nhà sản xuất, nhà bán buôn, nhà phân phối thì doanh thu thu được từ các hoạt động vận hành của họ được coi như là doanh thu bán hàng. Các hoạt động chính của một công ty cung cấp dịch vụ sẽ bao hàm các hoạt động chuyên môn và cung cấp những hoạt động dịch vụ đó cho khách hàng.

Nhiều người có thể sử dụng “INCOME” thay cho “REVENUE”. Nhưng điều quan trọng là các cá nhân không được nhầm lẫn giữa “Revenues” -Doanh thu và “Receipts”-Số tiền nhận được.

Dựa theo nền tảng của kế toán, doanh thu từ các dịch vụ và doanh thu bán hàng được đưa vào phần trên cùng của báo cáo tài chính trong kỳ kế toán mà họ tạo ra hoặc phân phối được, chứ không phải trong thời kỳ mà nhận được tiền mặt.. Nói đơn giản, “Revenues”- Doanh thu xảy ra khi kiếm được tiền, còn “Receipts” xảy ra khi chính thức nhận được tiền.

Ví dụ, nếu một nhà bán lẻ hợp đồng với khách hàng trong 30 ngày để thực hiện, doanh thu sẽ xảy ra và được báo cáo khi hàng hóa được bán cho người mua, chứ không phải vào lúc tiền mặt được nhận vào 30 ngày sau đó. Nếu hàng hóa bán vào tháng 12, doanh thu bán hàng sẽ được báo cáo trong báo cáo tài chính tháng 12. Khi nhà bán lẻ nhận được tiền thông báo vào tháng 1 cho doanh số bán hàng tháng 12, nhà bán lẻ sẽ có “Receipt” của tháng 1, chứ không phải là “Revenue” của tháng 1.

Thông thường, nếu một công ty tư vấn hỏi các khách hàng là phải trả tiền trong vòng 30 ngày để có thể nhận được các dịch vụ của họ, doanh thu sẽ xảy ra và được ghi nhận khi dịch vụ được triển khai, chứ không phải 30 ngày sau khi công ty tư vấn nhận tiền mặt từ khách hàng.

Nếu một công ty bán các loại hàng cho người mua - người mua sẽ trả tiền trực tiếp cho họ thì công ty sẽ có cả “receipt” và “revenue” cho thời điểm đó, họ có “receipt” vì họ đã nhận được tiền, họ có doanh thu bán hàng bởi họ đã bán được hàng hóa.

Bằng kiến thức về sự khác nhau giữa “receipts” và “revenues”, chúng ta có thể chắc chắn rằng “revenues”-doanh thu bắt nguồn từ một giao dịch mà nó sẽ được báo cáo một lần, khi các hoạt động chính được hoàn thành (chứ không nhất thiết phải là thời điểm nhận tiền mặt).

2.Doanh thu từ các hoạt động phụ

“Secondary activities” thường được coi như là các hoạt động ngoài sản xuất, ngoạt hoạt động vận hành chính cho công ty. Có một số lượng lớn các khoản tiền tạo ra của doanh nghiệp là từ mua, bán hàng hóa và dịch vụ.

Ví dụ, khi một nhà kinh doanh bán lẻ kiếm được tiền lãi từ chính những khoản tiền có sẵn hoặc cho thuê địa điểm, những doanh thu này là kết quả từ các hoạt động ngoài việc mua và bán các sản phẩm hàng hóa. Kết quả là những doanh thu này sẽ được báp cáo trong báo cáo tài chính riêng biệt với các hoạt động chính như bán hàng hay dịch vụ.

Cũng giống như doanh thu từ các hoạt động vận hành, doanh thu từ các hoạt động ngoài mảng này cũng được báo cáo lãi, lỗ trong kỳ báo cáo khi mà họ tạo ra hoạt động, không phải là khi nhận được tiền mặt.

3.Lợi nhuận

Lợi nhuận này có thể có được từ việc bán tài sản dài hạn, thắng kiện các hợp đồng ngoài các hoạt động sản xuất. Những lợi nhuận này sẽ được đưa vào báo cáo tài chính dựa trên giá trị bán ra của tài sản trừ đi giá trị còn lại của tài sản sau khi được khấu hao trong quá trình sử dụng. Nếu giá trị bán lại lớn hơn giá trị còn lại thì lãi sẽ được ghi nhận trong báo cáo.

B. Chi phí và lỗ

1.Chi phí cho các hoạt động chính

Là các loại chi phí được sử dụng để tạo ra doanh thu cho hoạt động vận hành. Dựa trên các tiêu chuẩn của kế toán, chi phí bán hàng sẽ xuất hiện ở báo cáo tài chính trong cùng khảng thời gian mà doanh số bán hàng được báo cáo, bất kể chi phí thực tế đã được chi trả hay chưa. Theo cách đó, giá vốn hàng bán cũng phải đưa ra cùng với doanh số tương ứng của chúng trên báo cáo tài chính, bất kể đã thanh toán cho nhà cung cấp hay chưa.

Và các chi phí trong báo cáo tài chính dường như có thể được báo cáo tại các thời điểm khác nhau so với thời điểm giải ngân tiền mặt. Điều này phổ biến với các chi phí xảy ra trước khi công ty trả tiền cho họ (ví dụ: lương cho người lao động, tiền thưởng, tiện ích, chi phí bán hàng). Tuy nhiên, vài chi phí xảy ra sau khi công ty trả cho họ, ví dụ như khi một công ty mua một tòa nhà vào 31/12/2013 với giá trị 300000 (không bao gồm chi phí đất đai). Tòa nhà được cho là có thời gian sử dụng trong 30 năm. Công ty sẽ phải trả tiền cho việc sử dụng tòa nhà này từ 31/12/2013 nhưng sẽ báo cáo chi phí khấu hao 10000 mỗi năm bắt đầu từ năm 2014 đến năm 2043.

Một số khoản tiền chi trả nhiều khi không được coi là chi phí trong báo cáo. Ví dụ, một công ty sẽ trả 20000$$cho ngân hàng để giảm số lượng tiền vay ngân hàng của họ. Khoản tiền này sẽ giảm số tiền mặt công ty và khoản nợ ngân hàng của chính công ty đó, nhưng đây không được coi là một khoản chi phí.

Vài chi phí còn được kết hợp với nhau trong doanh số bán hàng trên báo cáo tài chính bởi vì chúng có mối quan hệ nhân quả mật thiết với nhau-việc bán các hàng hóa sẽ bao gồm có giá vốn hàng bán và chi phí bán hàng. Các chi khác không liên quan trực tiếp đến doanh số bán hàng thì chúng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp trong kỳ kế toán khi chúng được tiêu thụ hay sử dụng ,ví dụ như chi phí điện nước, chi phí tiền lương và chi phí khấu hao. Một số chi phí như chi phí quảng cáo, nghiên cứu và chi phí phát triển hoặc là sẽ cho liên kết với doanh số hoặc là một tải khoản riêng biêt, và chúng sẽ đươc báo cáo là chi phí ngay khi chúng phát sinh.

Các báo cáo tài chính hoặc báo cáo lãi, lỗ về hàng hóa của các bên mua hàng và bên sản xuất sẽ sử dụng riêng biệt giá vốn hàng bán. Các chi phí khác liên quan đến các hoạt động chính hoặc là sẽ được nhóm lại với nhau như là chi phí vân hành hoặc là chia thành 2 loại chi phí bán hàng và chi phí hành chính.

2.Chi phí từ các hoạt động phụ

Là các chi phí cho các hoạt động không phải hoạt động vận hành, ví dụ lãi suất liên quan đến chức năng tài chính của doanh nghiệp.

3.Lỗ/Thiệt hại

Tài khoản này có thể phát sinh từ việc bán các tài sản dài hạn, một giao dịch bên ngoài hoạt động chính của doanh nghiệp. Các loại lỗ này sẽ được báo cáo trên báo cáo dựa trên: giá trị còn lại của tài khoản đó trừ đi số tiền thu được từ việc bán loại tài khoản đó. Lỗ xảy ra khi mà giá trị bán được nhỏ hơn giá trị còn lại.

Tổng hợp và dịch:

http://www.accountingcoach.com/income-statement/explanation

http://www.accountingcoach.com/income-statement/explanation/2

0